Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một trong những sắc thuế tác động trực tiếp đến thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, để bảo đảm công bằng và hợp lý, pháp luật thuế hiện hành đã quy định nhiều chính sách miễn, giảm – trong đó nổi bật nhất là chế độ giảm trừ gia cảnh. Một câu hỏi được đặt ra khá phổ biến là: cá nhân cư trú có được hưởng giảm trừ gia cảnh không? Và cá nhân không cư trú thì có được áp dụng không? Câu trả lời nằm ở chính sự phân loại tình trạng cư trú – yếu tố quyết định cách tính thuế, thuế suất, cũng như quyền lợi về các khoản khấu trừ hợp pháp.
1. Giảm trừ gia cảnh là gì và áp dụng cho đối tượng nào?
Theo quy định tại Luật Thuế TNCN sửa đổi năm 2012 và Thông tư 111/2013/TT-BTC, giảm trừ gia cảnh là khoản được trừ trước khi tính thu nhập chịu thuế. Có hai loại giảm trừ gia cảnh:
-
Giảm trừ cho bản thân người nộp thuế, hiện tại là 11 triệu đồng/tháng (tương đương 132 triệu đồng/năm);
-
Giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc, mức hiện hành là 4,4 triệu đồng/người/tháng, áp dụng nếu người nộp thuế có đăng ký và được cơ quan thuế xác nhận người phụ thuộc hợp lệ (con nhỏ, cha mẹ già, người khuyết tật...).
Tuy nhiên, những khoản giảm trừ này chỉ áp dụng đối với cá nhân cư trú – nghĩa là người có mối liên hệ thường xuyên về cư trú, sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
2. Cá nhân cư trú: Được quyền giảm trừ hợp pháp
Căn cứ theo Điều 19 Luật Thuế TNCN, cá nhân cư trú là đối tượng được tính thuế theo biểu lũy tiến từng phần, tức càng có thu nhập cao thì tỷ lệ thuế phải nộp càng lớn. Để bảo vệ người có thu nhập trung bình, thấp và người có trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, pháp luật cho phép khấu trừ trước các khoản giảm trừ gia cảnh.
Điều này đồng nghĩa với việc cá nhân cư trú có thể được khấu trừ:
- 11 triệu đồng mỗi tháng cho bản thân;
- 4,4 triệu đồng mỗi người/tháng cho người phụ thuộc đủ điều kiện;
- Cùng với đó là các khoản khấu trừ bảo hiểm, từ thiện, đóng góp theo luật.
Nhờ đó, số thu nhập tính thuế thực tế sẽ giảm đáng kể, và người nộp thuế chỉ phải chịu thuế cho phần thu nhập vượt quá ngưỡng miễn trừ.
Ví dụ: một người lao động có thu nhập 20 triệu đồng/tháng, nuôi 1 con nhỏ, sau khi giảm trừ bản thân và người phụ thuộc, chỉ còn 4,6 triệu đồng là thu nhập chịu thuế – mức thấp hơn nhiều so với số thực lĩnh.
3. Cá nhân không cư trú: Không được hưởng giảm trừ gia cảnh
Trái lại, cá nhân không cư trú – tức là người không sống thường xuyên tại Việt Nam (dưới 183 ngày trong năm và không có nơi ở thường xuyên theo quy định), sẽ không được áp dụng bất kỳ khoản giảm trừ gia cảnh nào.
Lý do là vì cá nhân không cư trú được tính thuế TNCN theo phương pháp khấu trừ đơn giản, tức áp dụng thuế suất cố định 20% trên tổng thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam. Phương pháp này tuy thuận tiện, nhưng không cho phép trừ các khoản miễn giảm như giảm trừ bản thân, người phụ thuộc hay bảo hiểm xã hội.
Điều đó dẫn đến hệ quả: cùng một mức thu nhập, cá nhân không cư trú thường phải nộp thuế cao hơn cá nhân cư trú, đặc biệt là khi người cư trú có gia cảnh cần nuôi dưỡng. Đây là một trong những điểm phân biệt quan trọng giữa hai nhóm đối tượng trong quản lý thuế tại Việt Nam.
4. Ý nghĩa và cảnh báo trong thực tiễn khai thuế
Từ quy định trên, có thể thấy rằng xác định đúng tình trạng cư trú là bước đầu tiên và rất quan trọng khi tính thuế TNCN. Nếu một cá nhân không phải cư trú nhưng cố tình khai là cư trú để được khấu trừ giảm trừ gia cảnh, sẽ bị coi là kê khai sai, gian lận thuế và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế.
Ngược lại, nếu cá nhân cư trú nhưng không khai báo giảm trừ người phụ thuộc, sẽ chịu thiệt về nghĩa vụ thuế. Do đó, cả người nộp thuế và doanh nghiệp chi trả thu nhập cần chủ động xác định tình trạng cư trú rõ ràng, đồng thời thực hiện khai báo người phụ thuộc đúng hạn theo quy định tại Thông tư 105/2020/TT-BTC về đăng ký thuế.